SANG THU
-
Hữu Thỉnh -
I.
GIỚI THIỆU CHUNG
1. Tác
giả:
- Hữu Thỉnh tên đầy đủ là
Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Là một trong những gương
mặt tiêu biểu thuộc lớp nhà thơ chiến sĩ
trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước.
– Là nhà thơ viết nhiều,
viết hay về những con người ở
nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm
xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời
trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ
nhàng.
– Thơ Hữu Thỉnh mang đậm
hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế
và giàu rung cảm.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ sáng tác năm 1977, 2 năm sau ngày thống nhất đất nước.
- In trong tập “Từ chiến hào đến thành
phố” (1991). b. Ý nghĩa
nhan đề
“Sang thu” vừa là
nghĩa thực vừa mang ý nghĩa ẩn dụ: đó là những biến chuyển của thiên nhiên phút
giao mùa từ hạ sang thu nhưng trong từng cảnh sang thu của đất trời, tạo vật là
hồn người sang thu.
c. Bố cục: 3 phần
+ Khổ 1: Những tín hiệu giao mùa.
+ Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa.
+ Khổ 3: Những suy tư và chiêm nghiệm của nhà thơ.
II.
TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
1. Khổ
1: Những tín hiệu giao mùa
“Sang
thu” là một khoảnh khắc giao mùa rất đặc biệt của thiên nhiên, tạo hóa. Đó là
thời khắc mùa hạ vẫn chưa kịp đi mà hương thu đã lặng lẽ đến rồi. Trước những
biến chuyển ấy, hẳn phải là một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và giàu cảm xúc lắm
thì thi nhân mới cảm nhận được.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
- Nếu như Lưu
Trọng Lư cảm nhận tín hiệu của thu sang bằng “lá thu kêu xào xạc/ con nai vàng
ngơ ngác”; Xuân Diệu là rặng liễu thu buồn ven hồ “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu
tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”... thì đến Hữu Thỉnh, bằng sự tinh tế
của khứu giác và xúc giác, ông “bỗng” bất ngờ nhận ra mùa thu với “hương ổi”
phả trong làn “gió se”. “Hương ổi” – mùi hương rất đỗi thân thuộc, bình dị ở
làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sum suê cây trái mỗi độ thu về. “Gió
se” – thứ gió khô và se se lạnh, đặc trưng của mùa thu đất Bắc.
+ Hương ổi ấy
không hòa vào quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa
ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự
liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà, những quả ổi chín vàng trên các cành
cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả”
thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại, đậm đà và gợi cả sự vận động nhẹ
nhàng của gió đưa hương. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của
một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu
dân dã mà đầy thi vị. Ông đã phát hiện ra một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng
nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ.
+ Trong thơ ca cổ
điển phương Đông (nhất là thơ Đường), mùa thu thường hiện ra qua các hình ảnh
mang tính ước lệ như “ngô đồng”, “rặng liễu”, “lá vàng mơ phai”, “hoa cúc”… thì
với Hữu Thỉnh, ông lại bắt đầu bằng “hương ổi”. Đó là một hỉnh ảnh, một tứ thơ
khá mới mẻ với thơ ca viết về mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc và gần gũi
đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu về.
+ “Hương ổi” gắn
liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong
tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ.
Chính Hữu Thỉnh đã tâm sự rằng: “Giữa trời đất mênh mang, giữa cái khoảnh khắc
giao mùa kì lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để
nhận ra đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không
làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng
với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ
giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông… Nó giống
như mùi bờ bãi, mùa con trẻ… Hương ổi tự nó xốc thẳng vào những miền thơ ấu
thân thiết trong tâm hồn chúng ta. Mùi hương đơn sơ ấy lại trở thành quý giá vì
nó đã trở thành chiếc chìa khóa vàng mở thẳng vào tâm hồn mỗi người, có khi là
cả một thế hệ…”
+ Hương ổi ấy, cơn
gió đầu mùa se lạnh ấy là sứ giả của mùa thu (cũng như chim én là sứ giả của
mùa xuân). Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ”đến mức chỉ một chút vô tình thôi là
không một ai hay biết. Có thể nói trước Hữu Thỉnh có rất nhiều nhà thơ viết về
mùa thu nhưng đây là một phát hiện tinh tế của một hồn thơ xứ sở.
- Những tín hiệu
“hương ổi”, “gió se” dường như vẫn còn chưa đủ để khẳng định rằng mùa thu đã
sang. Bởi thế, nhà thơ đã tiếp tục có những cảm nhận đầy tinh tế về khoảnh khắc
giao mùa qua hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ”:
+ Cảm nhận của tác
giả đến đây đã có sự chuyển đổi từ khứu giác, xúc giác sang thị
giác. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao
quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay
như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ
“Tây Tiến”: “Sài Khao
sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn
sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí
thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên.
+
Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ láy “chùng chình” khiến cho sương thu như
có tâm hồn, có cảm nhận riêng, mùa thu hiện ra như một con người đang cố ý chậm
lại để kéo dài thời gian, như bâng khuâng nuối tiếc, luyến lưu một điều gì chưa
rõ. Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc. Từ “ngõ” vừa
gợi ra một không gian cụ thể vừa là hình ảnh ẩn dụ về cửa ngõ thời gian thông
giữa hai mùa.
+ Thiên nhiên được
cảm nhận từ những gì vô hình như hương và gió, mờ ảo như sương, nhỏ hẹp và gần
như ngõ, đó là cảm nhận rất riêng của nhà thơ.
- Trước khoảnh
khắc giao mùa ấy, tác giả đã giật mình, bối rối: “Hình như thu đã về”. Ở câu
thơ mở đầu, Hữu Thỉnh dùng từ “bỗng” để gợi cảm giác bất ngờ, ngạc nhiên đột
ngột khi nhận ra hương thơm quen thuộc, đặc trưng của mùa thu đất Bắc thì đến
đây, ông dùng tờ “hình như”. “Hình như” là từ tình thái gắn với một phán đoán
không chắc chắn pha lẫn chút nghi hoặc. Thế nhưng, nó lại rất phù hợp để diễn
tả sự mơ hồ và cảm xúc bâng khuâng xao xuyến đậm chất thi sĩ của nhà
thơ trước khoảnh khắc giao mùa. Tất cả đều đã góp phần vào thể hiện
tâm trạng ngỡ ngàng, vui mừng, hạnh phúc của tác giả khi đất trời “sang thu”.
=> Bốn câu thơ
đầu là những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước những tín hiệu thu về ở không
gian gần và hẹp. Từ những cảm nhận tinh tế mà tài hoa ấy, ta như thấy bóng hình
một con người chín chắn và trầm ngâm, một tâm hồn nhạy cảm với tình yêu thiên
nhiên tha thiết.
2. Khổ
2: Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
Khổ thơ thứ hai là những
cảm nhận về biến chuyển của đất trời sang thu trong không gian dài, rộng và
cao:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt
nửa mình sang thu
- Sự vận động của thiên
nhiên trong thời khắc chuyển mùa được miêu tả cụ thể bằng những đổi thay của
vạn vật qua nghệ thuật đối rất tài tình ở hai câu thơ đầu:
+ Phép nhân hóa
“sông – dềnh dàng” và từ láy “dềnh dàng” trong câu thơ đầu tiện gợi lên hình
ảnh dòng sôi trôi chậm, nhẹ nhàng, thanh thản. Sông lúc sang thu không cuồn
cuộn chảy dữ dội như khi giữa những ngày hè đầy bão giông, mưa lũ mà êm ả, trôi
lững lờ, dềnh dàng như đang lắng lại, đang trầm ngâm suy nghĩ, chiêm
nghiệm về cuộc đời.
+ Đối lập với dòng
sông là đàn chim giữa quang cảnh sang thu. Nghệ thuật nhân hóa “chim – vội vã”
và từ láy gợi cảm “vội vã” đã miêu tả chính xác hình ảnh những chú chim bay về
phương Nam tránh rét. Từ “bắt đầu” được sử dụng thật độc đáo, nó
diễn tả những hoạt động mới chớm diễn ra, rất nhẹ và rất khẽ. Chắc hẳn, tác giả
phải tinh tế lắm mới có thể nhận ra sự “bắt đầu” này trong những cánh chim bay.
+ Hai câu thơ đầu
đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau giữa
hai chiều không gian: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông trôi “dềnh
dàng” chậm rãi, chim bay “vội vã” lo lắng. Đó chính là sự đa dạng của quang
cảnh thiên nhiên khi mùa thu đang về
+ Ý thơ đồng thời
còn gợi cho người đọc một liên tưởng khác: Sự chuyển động của dòng sông, của
cánh chim phải chăng còn là sự chuyển mình của đất nước. Cả đất nước ta vừa
trải qua chiến tranh tàn khốc mới có được hòa bình, và giờ đây mới được sống
một cuộc sống yên bình, êm ả. Nhưng rồi mỗi người dân Việt Nam cũng lại bắt đầu
hối hả nhịp sống mới để xây dựng đất nước trong niềm vui rộn ràng.
- Đất trời mùa thu như
đang rùng mình để thay áo mới. Cả bầu trời mùa thu cũng có sự thay đổi: Có
đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
+ Trong thơ ca Việt
Nam, không ít những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu: “Tầng mây lơ lửng
trời xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến – “Thu điếu”); “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
(Huy Cận – “Tràng giang”)… những mây “vắt nửa mình sang thu” như Hữu Thỉnh thì
vẫn có thể nói là một sáng tạo đầy mới lạ.
+ Nghệ thuật nhân
hóa độc đáo, thú vị thể hiện trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ đã gợi ra
hình ảnh đám mây lưu luyến bắc chiếc cầu mỏng như dải lụa treo trên bầu trời:
ranh giới nửa nghiêng về mùa hạ, nửa nghiêng về mùa thu.
+ Hữu Thỉnh dùng
động từ “vắt” để gợi ra trong thời điểm giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ
trôi như tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh, cao rộng.
+ Hình như đám mây
đó vẫn còn lại một vài tia nắng ấm của mùa hạ nên mới “Vắt nửa mình sang thu”.
Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi đến
một lúc nào đó không còn nữa để toàn bộ sự sống, để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn
nhuốm màu sắc thu.Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào như thế vì mắt
thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu.
Đó chỉ là một sự liên tưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao
mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang
đến cho người đọc… mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm
mát của mùa thu.
+ Mượn hình ảnh
không gian để miêu tả thời gian, hai câu thơ trên thật đẹp về mặt tạo hình,
thật tinh tế trong cảm nhận. Và có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm
tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức
tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.
=> Quang cảnh
thiên nhiên phút giao mùa thật khoáng đạt và sinh động qua việc nhà thơ mở rộng
tầm quan sát, cảm nhận của mình lên chiều cao (chim), chiều rộng (mây) và chiều
dài (dòng sông). Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn
thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.
3. Khổ
3: Những suy tư và chiêm nghiệm của nhà thơ.
Khổ thơ cuối bài
thơ “Sang thu” là những cảm nhận về tạo vật phút giao mùa bằng chiều sâu ngẫm:
Vẫn
còn bao nhiêu nắng
Đã vơi
dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.
- Những biến chuyển của
nắng, mưa, sấm chớp trong lúc giao mùa hiện lên với những nhận xét tinh tế của
một người am tường về thời tiết.
- Thủ pháp đối lập được
tác giả vận dụng khá hiệu quả khi diễn tả sự đổi thay của thời
tiết (“vẫn còn <>
“vơi dần”, “nắng” <> “mưa”). Nắng, mưa vốn là hiện tượng của thiên nhiên
vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa nắng hàng
ngày một sự hụt vơi – dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu. Nắng vẫn còn
nhưng mưa đã vơi dần. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã ít đi những
cơn mưa rào ào ạt và cũng bớt đi những tiếng sấm bất thường chỉ có trong mùa
hạ. Dường như sắc hạ đã nhạt dần và sắc thu đã dần đậm nét hơn.
- Các từ ngữ chỉ mức
độ: vẫn còn – đã vơi dần – cũng bớt bất ngờ được sắp xếp theo
trình
tự giảm dần mức độ cho
thấy vẫn còn đâu đó dư âm của mùa hạ nhưng đang nhạt dần, tất cả đã đi vào
chừng mực, vào thế ổn định, thể hiện được sự đặc trưng của mưa nắng lúc giao
mùa.
- Bài thơ khép lại bằng
hai dòng thơ hàm súc mang hai tầng ý nghĩa:
Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây
đứng tuổi.
+ Trước hết là ý nghĩa tả thực về thiên nhiên: sang thu, sấm thưa và nhỏ
dần, không còn
đủ sức để lay động hàng
cây đã bao mùa thay lá.
+ Bên cạnh đó, hai câu thơ còn mang ý nghĩa ẩn dụ: “sấm” tượng trưng cho
những vang động bất ngờ, những khó khăn trở ngại, thách thức... của ngoại cảnh,
của cuộc đời và “hàng cây đứng tuổi” tượng trưng cho những con người từng trải.
Qua đó, nhà thơ muốn gửi đến người đọc một bức thông điệp: con người từng trải
sẽ vững vàng hơn trước những đổi thay, thử thách của cuộc đời. Từ mùa thu thiên
nhiên liên tưởng đến mùa thu của đời người, câu thơ mang ý nghĩa triết lí sâu
xa.
+ Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không
đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn
là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu
mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa
thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường
của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng,
bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời.
=> Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự
chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu
Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy
những vần thơ của ôngcó sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.
III TỔNG KẾT
1. Nội dung:
Bài thơ “Sang thu”
của Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một
bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ nhàng, êm dịu, trong sáng nên
thơ…ở vùng đông bằng Bắc Bộ của đất nước. Đồng thời, thi phẩm đánh thức tình
cảm của mỗi người vềtình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.
2. Nghệ thuật:
- Hình
ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm.
- Thể
thơ năm chữ.
- Giọng
thơ nhẹ nhàng, sâu lắng.
- Sự kết
hợp nhuần nhuyễn của các biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ…